Điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định độ tuổi kết hôn là từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Như vậy, tảo hôn được hiểu là việc kết hôn khi nam chưa đủ 20 tuổi và nữ chưa đủ 18 tuổi. Trên thực tế, tình trạng này xảy ra rất nhiều, không chỉ riêng các dân tộc miền núi mà còn ở thành phố và nhiều nơi khác. Tình trạng tảo hôn gây nên bởi nhiều nguyên nhân. Đối với các dân tộc sinh sống tại miền núi, đây được coi là một phần nếp sống. Do sinh sống tại miền núi, ít người và rất cần lực lượng lao động nên việc kết hôn sớm góp phần đảm bảo lực lượng lao động. Còn dưới các thành phố và nhiều nơi khác trên cả nước, việc tiếp xúc sớm với thông tin trên mạng xã hội kết hợp với việc không nhận được sự giáo dục đúng cách của gia đình về vấn đề giới tính khiến tỉ lệ phá thai đang ngày càng gia tăng với độ tuổi phá thai giảm dần. Và nếu không lựa chọn phá thai, các gia đình sẽ chọn tổ chức kết hôn sớm và thực hiện đăng ký kết hôn sau.

Về vấn đề xử phạt đối với hành vi tổ chức, ép buộc tảo hôn, Điều 23 Nghị định 130/2021/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 23. Vi phạm quy định về cấm lạm dụng, bóc lột trẻ em, tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Bắt trẻ em làm công việc gia đình quá sức, quá thời gian, ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi, giải trí, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em;
b) Tổ chức, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Tổ chức, ép buộc trẻ em đi xin ăn;
b) Cho thuê, cho mượn trẻ em hoặc sử dụng trẻ em để xin ăn.
3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Dẫn dắt, rủ rê, xúi giục, dụ dỗ, lôi kéo, kích động, lợi dụng, ép buộc làm trung gian giao dịch hoạt động bóc lột trẻ em;
b) Dẫn dắt, rủ rê, xúi giục, dụ dỗ, lôi kéo, kích động, lợi dụng trẻ em lao động trái quy định của pháp luật;
c) Bắt trẻ em lao động trước tuổi, quá thời gian, làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định của pháp luật hoặc làm việc ở nơi mất an ninh trật tự, có ảnh hưởng xấu đến nhân cách và sự phát triển của trẻ em. Trường hợp người sử dụng lao động sử dụng trẻ em làm công việc ngoài danh mục được pháp luật cho phép thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
d) Bóc lột sức lao động trẻ em. Trường hợp người sử dụng lao động lợi dụng danh nghĩa học nghề, tập nghề để bóc lột sức lao động của trẻ em thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
4. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm tại khoản 3 Điều này.
5. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm tại khoản 2 và khoản 3 Điều này;
b) Buộc chịu mọi chi phí để khám bệnh, chữa bệnh (nếu có) cho trẻ em đối với hành vi vi phạm tại các khoản 1, 2 và khoản 3 Điều này.

Như vậy, hành vi tổ chức, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Bên cạnh đó, người vi phạm còn phải chịu chi phí về khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em nếu có.

Bên cạnh việc xử phạt hành chính, trường hợp người vi phạm đã bị xử phạt hành chính mà còn tiếp tục tổ chức tảo hôn, người vi phạm có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 183 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:

Điều 183. Tội tổ chức tảo hôn
Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

Theo đó, trường hợp người tổ chức tảo hôn đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm có thể có bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng; phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

Was this helpful?

0 / 0