Luật pháp không có quy định về “quỹ đen”. Nhưng theo ngôn ngữ đời sống hàng ngày, quỹ đen thường được hiểu một cách vui vẻ là khoản tiền mà người chồng phải lén lút giấu đi mỗi khi lương về. Còn theo ngôn ngữ bình thường, “quỹ đen” có thể hiểu là một khoản tiền dự phòng được giấu kín, không công khai, minh bạch. Việc có quỹ đen bắt nguồn từ các cặp vợ chồng chọn chế độ tài sản theo luật định. Tức là mọi thu nhập hai người có được sau khi kết hôn sẽ được coi là tài sản chung. Cũng theo đó, để dễ dàng hơn trong việc quản lý chi tiêu, nhiều gia đình sẽ chọn quy tiền về một mối và thường người vợ là người giữ tiền để quản lý chi tiêu trong gia đình.
Vấn đề phát sinh khi cuộc sống khi còn độc thân và khi kết hôn sẽ có sự khác biệt. Hai bên đều có những thú vui riêng và nhiều khi không muốn cho người còn lại biết. Vậy nên “quỹ đen” ra đời.
Việc có “quỹ đen” có xấu không?
Về bản chất, việc có “quỹ đen” không xấu do ngay cả khi kết hôn, mỗi người vẫn sẽ có những nhu cầu, cuộc sống của riêng mình. “Quỹ đen” để phục vụ cho những mục đích đó. Việc có “quỹ đen” không xấu; “quỹ đen” xấu hay không phụ thuộc vào mục đích của người sử dụng.
“Quỹ đen” có phải chia khi ly hôn?
“Quỹ đen” có được xác định là tài sản chung trong hôn nhân không?
Tài sản chung trong hôn nhân được xác định theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Như vậy, tài sản chung có thể được hiểu là tất cả thu nhập; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng có được trong thời kỳ hôn nhân.
“Quỹ đen” theo đó xuất phát từ thu nhập của hai người trong hôn nhân. Vậy nên “quỹ đen” được coi là tài sản chung trong hôn nhân.
“Quỹ đen” có phải chia khi ly hôn không?
Do quỹ đen thuộc tài sản chung trong hôn nhân nên thông thường, “quỹ đen” cũng sẽ được chia đôi khi ly hôn. Tuy nhiên, tài sản được sử dụng để ly hôn phụ thuộc vào những tài sản minh bạch, có thể xác định được của hai vợ chồng. Trong khi đó, “quỹ đen” lại là khoản tiền không minh bạch, không được đưa vào ghi chép và có thể không được biết đến bởi người còn lại trong quan hệ hôn nhân.
Vậy nên, nếu khi ly hôn, “quỹ đen” không được ai biết đến thì sẽ không phát sinh việc phải chia khi ly hôn. Tuy nhiên, xét về mặt nguyên tắc, “quỹ đen” vẫn là tài sản chung trong hôn nhân và vẫn sẽ được đem ra chia khi hai người ly hôn.
Was this helpful?
0 / 0